Những vấn đề cơ bản về tài chính

Mục tiêu kiến thức hiểu được những vấn đề cơ bản về tài chính. Mục tiêu kỹ năng là phân tích được bản chất, chức năng của tài chính. Nhớ được vị trí, đặc điểm, nội dung của các khâu trong hệ thống tài chính. Phân tích được mối quan hệ giữa các khâu đó.

a) Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính là gì? Cơ sở khách quan cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính là sự xuất hiện của sản xuất hàng hóa tiền tệ và nhà nước. Trong đó, sản xuất hàng hóa tiền tệ là nhân tố khách quan có ý nghĩa quyết định, đối với sự ra đời và phát triển của tài chính, và nhà nước là nhân tố có ý nghĩa định hướng tạo ra hành lang và điều tiết sự phát triển của tài chính.

b) Bản chất của tài chính là gì? Trên cơ sở phân tích các hoạt động tài chính trong nền kinh tế thị trường, có thể kết luận. Bản chất của tài chính là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính, thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ, nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội, được biểu hiện bên ngoài dưới dạng các hiện tượng thu vào bằng tiền, và chi ra bằng tiền ở các chủ thể kinh tế xã hội.

c) Chức năng của tài chính là gì? Trong đời sống xã hội, tài chính vốn có hai chức năng là chức năng phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị (gọi tắt là chức năng phân phối) và chức năng giám đốc bằng tiền đối với các quá trình phân phối (gọi tắt là chức năng giám đốc).

d) Hệ thống tài chính là gì? Hệ thống tài chính là tổng thể các hoạt động tài chính trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau, về việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể kinh tế xã hội hoạt động trong các lĩnh vực đó.

Có nhiều lý thuyết khác nhau để xác định thế nào là một khâu tài chính. Có thể chỉ ra các kiến thức chủ yếu của một khâu tài chính: là một điểm hội tụ của các nguồn tài chính; các hoạt động tài chính, sự vận động của các nguồn tài chính, việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ luôn gắn liền với một chủ thể phân phối cụ thể và xác định; các hoạt động tài chính có cùng tính chất, đặc điểm, vai trò, có tính đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính, và tính mục đích của quỹ tiền tệ trong lĩnh vực hoạt động.

Theo đó, hiện nay, hệ thống tài chính nước ta bao gồm 5 khâu: ngân sách nhà nước, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm, tín dụng, tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình. Trong hệ thống tài chính thống nhất, các khâu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (vừa là quan hệ trực tiếp, vừa là quan hệ gián tiếp thông qua thị trường tài chính) nhưng mỗi khâu có nhiệm vụ riêng.

1. Tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính.

Tài chính chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định, khi mà ở đó có những hiện tượng kinh tế xã hội khách quan nhất định, xuất hiện và tồn tại. Những hiện tượng kinh tế xã hội khách quan đó, như tiền đề khách quan quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính.

1.1 Tiền đề sản xuất hàng hóa và tiền tệ.

Lịch sử xã hội loài người cho thấy rằng, cuối thời kỳ công xã nguyên thủy, phân công lao động xã hội bắt đầu phát triển, sản xuất và trao đổi hàng hóa được hình thành, theo đó tiền tệ xuất hiện như một đòi hỏi khách quan của sự phát triển xã hội. Sự xuất hiện của nền kinh tế hàng hóa cùng với việc sử dụng tiền tệ đã nảy sinh phạm trù tài chính.

1.2 Tiền đề nhà nước.

Khi chế độ tư hữu xuất hiện, thì xã hội bắt đầu phân chia thành giai cấp và có sự đấu tranh giữa các giai cấp. Trong điều kiện lịch sử đó, nhà nước xuất hiện và tác động chủ quan của nhà nước đã thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hóa, tiền tệ, có lúc kìm hãm sự phát triển của sản xuất hàng hóa tiền tệ.

Do đó, thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động tài chính thông qua cơ chế kinh tế. Nhà nước chẳng những tác động đến sự vận động độc lập của tiền tệ, trên phương diện ấn hành hiệu lực của đồng tiền, mà còn tạo ra môi trường pháp lý cho sự tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, nhất là quỹ tiền tệ trung gian và ngân sách nhà nước.

Kết luận: Tài chính là một phạm trù kinh tế, phạm trù lịch sử. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hóa tiền tệ nhà nước.

Liên hệ: Việt Nam đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, sản xuất hàng hóa tiền tệ với kinh tế nhiều thành phần và vấn đề lâu dài, nhà nước đang phát huy vai trò quản lý đối với sự phát triển kinh tế xã hội.

Vì thế, tài chính với tư cách là phạm trù kinh tế khách quan, đang tồn tại và được sử dụng mạnh mẽ trong sự nghiệp làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2. Bản chất của tài chính.

Việc xác định đúng bản chất của tài chính có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở cho việc phân biệt phạm trù tài chính với các phạm trù khác, nâng cao hiệu quả sử dụng tài chính trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.

2.1 Biểu hiện bên ngoài của tài chính.

Quan sát thực tiễn các quá trình vận động kinh tế xã hội, có thể nhận thấy các biểu hiện bên ngoài của tài chính thể hiện ra dưới dạng các hiện tượng thu vào bằng tiền và các hiện tượng chi ra bằng tiền ở các chủ thể kinh tế xã hội.

Có thể ví dụ như: Dân cư, doanh nghiệp nộp thuế bằng tiền cho nhà nước; Các doanh nghiệp sử dụng vốn điều lệ để mua sắm vật tự, thiết bị kinh doanh; Dân cư mua cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu của các doanh nghiệp, ngân hàng, kho bạc nhà nước; Các ngân hàng cho các doanh nghiệp vay tiền; Dân cư nộp tiền vào quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm kinh doanh (nộp phí bảo hiểm); Các cơ quan bảo hiểm trả tiền (bồi thường thiệt hại) cho dân cư khi họ bị mất sức lao động tạm thời hay vĩnh viễn (từ quỹ bảo hiểm xã hội) hay khi họ bị tai nạn rủi ro (từ quỹ bảo hiểm kinh doanh); Nhà nước cấp phát tiền từ ngân sách nhà nước tài trợ cho việc xây dựng đường giao thông, trường học, bệnh viện công,…

Từ vô số các hiện tượng tài chính kể trên, chúng ta thấy rằng, hình thức biểu hiện bên ngoài của tài chính thể hiện ra như là sự vận động của vốn tiền tệ. Ở những hiện tượng trên, có thể thấy tiền tệ xuất hiện trước hết với chức năng phương tiện thanh toán (ở người chi ra) và chức năng phương tiện cất trữ (ở người thu vào).

Ở đây, tiền tệ đại diện cho một lượng giá trị, một thế năng về sức mua nhất định và được gọi là nguồn tài chính (hay nguồn lực, nguồn lực tài chính). Tuy nhiên, trong thực tế, nguồn tài chính được nói đến dưới nhiều tên gọi khác nhau như: tiền vốn, vốn tiền tệ, vốn bằng tiền, vốn kinh doanh, vốn tín dụng, vốn ngân sách, vốn trong dân,…

Ở mỗi chủ thể kinh tế xã hội, khi nguồn tài chính được tập trung lại (thu vào) là khi các quỹ tiền tệ được hình thành (tạo lập) và khi nguồn tài chính được phân tán ra (chia ra) là lúc các quỹ tiền tệ được sử dụng.

Quá trình vận động của các nguồn tài chính cũng chính là quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Đó là quá trình các chủ thể kinh tế xã hội tham gia phân phối các nguồn tài chính, thông qua các hoạt động thu chi bằng tiền.

2.2 Nội dung kinh tế xã hội của tài chính.

Qua việc nghiên cứu các biểu hiện bên ngoài của tài chính ở trên, có thể xác định nội dung kinh tế xã hội của phạm trù tài chính như sau: Tài chính được đặc trưng bằng sự vận động độc lập tương đối của tiền tệ với chức năng phương tiện thanh toán và phương tiện cất giữ, trong quá trình tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ đại diện cho những sức mua nhất định ở các chủ thể kinh tế xã hội.

Nói cách khác, tài chính là tổng thể các quan hệ kinh tế trong phân phối các nguồn lực tài chính, thông qua tạo lập hay sử dụng các quỹ tiền tệ, nhằm đáp ứng yêu cầu của các chủ thể trong xã hội.

Nguồn tài chính là khả năng tài chính mà các chủ thể trong xã hội có thể khai thác, sử dụng nhằm thực hiện các mục đích của mình. Nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng tiền hoặc tài sản vật chất và phi vật chất. Sự vận động của các nguồn tài chính, phản ánh sự vận động của những bộ phận của cải xã hội dưới hình thức giá trị (tiền tệ).

Nguồn tài chính luôn thể hiện một khả năng về sức mua nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi chủ thể trong xã hội khi đã nắm trong tay những nguồn tài chính nhất định, là đã nắm trong tay một sức mua để có thể nắm được những nguồn lực hay sử dụng được những nguồn lực nhất định, phục vụ cho mục đích tích lũy hay tiêu dùng của mình.

Các hiện tượng, biểu hiện bên ngoài của tài chính là sự thể hiện và phản ánh các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trong quá trình phân phối các nguồn tài chính, quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Các quan hệ kinh tế như thế được gọi là các quan hệ tài chính.

Các quan hệ tài chính biểu hiện mặt bản chất bên trong của tài chính, ẩn dấu sau các biểu hiện bên ngoài của tài chính. Như vậy, có thể xác định bản chất của tài chính dựa trên các khía cạnh như sau:

– Tài chính là những quan hệ kinh tế, nhưng không phải mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều thuộc phạm trù tài chính. Tài chính chỉ bao gồm những quan hệ phân phối dưới hình thái giá trị.

– Tài chính là những quan hệ kinh tế chịu sự tác động trực tiếp của nhà nước của pháp luật, nhưng tài chính không phải là luật lệ tài chính.

Như vậy: Tài chính thể hiện ra là sự vận động của vốn tiền tệ, diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội. Nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong phân phối các nguồn tài chính, thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.

Kết luận: Tài chính là phạm trù phân phối dưới hình thái giá trị tiền tệ, nhưng tài chính không phải là tiền tệ. Tiền tệ chỉ là phương tiện biểu hiện các quan hệ tài chính. Tài chính là phương thức vận động độc lập tương đối của tiền tệ, với chức năng phương tiện thanh toán, phương tiện cất giữ. Tài chính, giá cả, tiền lương đều là phạm trù phân phối. Tuy nhiên, chúng là các phạm trù khác nhau.

3. Chức năng của tài chính.

Bao gồm hai chức năng chính là chức năng phân phối và chức năng giám đốc.

3.1 Chức năng phân phối.

Chức năng phân phối của tài chính là một khả năng khách quan của phạm trù tài chính. Con người nhận thức và vận dụng khả năng khách quan đó, để tổ chức việc phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị. Khi đó, tài chính được sử dụng với tư cách là một công cụ phân phối.

3.1.1 Khái niệm chức năng phân phối.

Chức năng phân phối của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó, các nguồn tài lực đại diện cho những bộ phận của cải xã hội, được đưa vào các quỹ tiền tệ khác nhau để sử dụng cho những mục đích khác nhau, đảm bảo những nhu cầu, những lợi ích khác nhau của đời sống xã hội.

3.1.2 Đối tượng phân phối.

Đối tượng phân phối là của cải xã hội dưới hình thức giá trị, là tổng thể các nguồn tài chính có trong xã hội. Xét về mặt nội dung, nguồn tài chính – mặt giá trị của cải xã hội là đối tượng phân phối, bao gồm các bộ phận:

– Bộ phận của cải xã hội mới được sáng tạo ra trong kỳ. Đó là tổng sản phẩm trong nước (GDP).

– Bộ phận của cải xã hội còn lại từ thời kỳ trước. Đó là phần tích lũy quá khứ của xã hội và dân cư.

– Bộ phận của cải được chuyển từ nước ngoài vào và bộ phận của cải từ trong nước chuyển ra nước ngoài.

– Bộ phận tài sản, tài nguyên quốc gia có thể cho thuê, nhượng bán có thời hạn.

Xét về mặt hình thức tồn tại, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng hữu hình hoặc vô hình. Nguồn tài chính hữu hình là nguồn tài chính tồn tại dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật.

Dưới dạng hình thái giá trị, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới hình thức tiền dân tộc (nội tệ), tiền lịch sử – vàng và ngoại tệ. Nguồn tài chính tồn tại dưới dạng tiền tệ, đang vận động thực tế trong chu trình tuần hoàn của nền kinh tế nên được gọi là nguồn tài chính thực tế.

Chính nhờ vào sự vận động của các nguồn tài chính này mà, các quỹ tiền tệ khác nhau có thể được tạo lập hoặc được sử dụng cho các mục đích khác nhau đã định trước. Dưới hình thái hiện vật, nguồn tài chính có thể tồn tại dưới dạng bất động sản, tài nguyên, công sản, đất đai, … gọi chung là tài sản.

Nguồn tài chính dưới dạng hiện vật, được gọi là nguồn tài chính tiềm năng. Bởi vì chúng được coi như có một khả năng tài chính. Trong điều kiện kinh tế thị trường, với sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ hàng hóa tiền tệ, khả năng chuyển hóa của tài chính thành tiền sẽ được thực hiện dễ dàng và nhanh chóng.

Khi tài sản thực hiện giá trị, chúng sẽ biến thành các khối tiền tệ, hòa vào các luồng tiền tệ của chu trình tuần hoàn kinh tế, và khi đó, nguồn tài chính tiềm năng chuyển hóa thành nguồn tài chính thực tế.

Nguồn tài chính vô hình là nguồn tài chính tồn tại dưới dạng những sản phẩm không có hình thái vật chất, như: dữ liệu, thông tin, hình ảnh, ký hiệu, phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật,… Nhưng sản phẩm kể trên, bản thân chúng có giá trị và trong điều kiện kinh tế thị trường, chúng có thể chuyển thành tiền thông qua mua bán. Do đó, chúng được coi là một bộ phận cấu thành của tổng thể các nguồn tài chính trong xã hội.

Quan niệm về tổng nguồn lực tài chính như trên, cho phép hình dung đầy đủ hơn về nguồn tài chính quốc gia, để có thể tìm ra các biện pháp thích hợp nhằm khai thác, huy động phân phối và sử dụng chúng một cách có hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

3.1.3 Kết quả của phân phối.

Kết quả của phân phối là sự hình thành (tạo lập) hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ ở các chủ thể trong xã hội, nhằm thực hiện những mục đích đã định. Trong phân phối của cải xã hội, không những tài chính mà còn có những phạm trù kinh tế khác được sử dụng với tư cách một công cụ phân phối như thương mại, giá cả, tiền lương,… mỗi công cụ đó được sử dụng theo các cách khác nhau và có những đặc điểm riêng.

3.1.4 Đặc điểm của phân phối.

Phân phối của tài chính mang những đặc điểm sau đây:

– Thứ nhất, phân phối của tài chính là sự phân phối chỉ diễn ra dưới hình thức giá trị, nó không kèm theo với sự thay đổi hình thái giá trị. Nói khác đi, phân phối của tài chính là sự phân phối hình thức giá trị, nhưng không chứa đựng sự vận động ngược chiều của hai hình thái giá trị như trong mua bán hàng hóa.

Đây là đặc điểm giúp phân biệt tài chính với một phạm trù phân phối khác là thương mại (cả vật phẩm tiêu dùng và tư liệu sản xuất). Thông qua chức năng phân phối của tài chính, các quỹ tiền tệ nhất định được hình thành và được sử dụng, nhưng chính trong việc hình thành và cả trong việc sử dụng các quỹ, đặc điểm của tài chính – phân phối dưới hình thức giá trị vẫn không thay đổi.

Các quỹ được hình thành, được sử dụng, được khuếch trương hay được chia nhỏ, vì những mục đích nhất định theo tác dụng rộng hơn hay hẹp hơn, nhưng đó vẫn là quá trình phân phối dưới hình thức giá trị. Mọi sự thu, chi bằng tiền kèm theo dưới sự thay đổi của hình thái giá trị, chứa đựng sự vận động ngược chiều của hai hình thái giá trị, đều không thuộc về sự phân phối của tài chính.

– Thứ hai, phân phối của tài chính là sự phân phối luôn luôn gắn liền với hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ nhất định.

– Thứ ba, phân phối của tài chính là quá trình phân phối diễn ra một cách thường xuyên liên tục, bao gồm cả phân phối lần đầu và phân phối lại.

3.1.5 Quá trình phân phối.

Bao gồm 2 quá trình, đó là phân phối lần đầu sản phẩm xã hội và phân phối lại.

a) Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội.

Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản xuất cho những chủ thể, tham gia vào quá trình sáng tạo của cải vật chất hay thực hiện các dịch vụ. Toàn bộ giá trị sản phẩm xã hội trong khu vực sản xuất được phân chia thành các quỹ tiền tệ như sau:

– Một phần bù đắp những chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất hay thực hiện dịch vụ. Phần này bù đắp chi phí khấu hao TSCĐ và chi phí mua nguyên, nhiên, vật liệu đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, tiêu thụ hàng hóa và kinh doanh dịch vụ.

– Một phần hình thành quỹ tiền lương để trả lương cho lao động.

– Một phần góp vào hình thành các quỹ bảo hiểm.

– Một phần là thu nhập cho các chủ sở hữu về vốn: cho các cổ đông (công ty cổ phần), nhà nước (doanh nghiệp nhà nước), các đối tác liên doanh,…

b) Phân phối lại.

Qua phân phối lần đầu, giá trị sản phẩm xã hội chỉ mới được chia thành những phần thu nhập cơ bản. Dừng lại ở đó, việc phân phối chưa thể đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của toàn xã hội. Do đó, phân phối lại đã trở thành một yêu cầu khách quan của xã hội.

Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản, những quỹ tiền tệ chứa đựng những nguồn lực tài chính đã được hình thành trong phân phối lần đầu ra phạm vị xã hội rộng hơn, hoặc theo những mục đích cụ thể hơn của các quỹ tiền tệ.

3.2 Chức năng giám đốc.

3.2.1 Khái niệm.

Chức năng giám đốc là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền, được thực hiện đối với quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập các quỹ tiền tệ hay sử dụng chúng theo các mục đích đã định.

3.2.2 Đối tượng giám đốc.

Đối tượng giám đốc là các quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, các quá trình vận động các nguồn tài chính.

3.2.3 Chủ thể giám đốc.

Chủ thể giám đốc là chủ thể phân phối, bao gồm: nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, gia đình.

3.2.4 Đặc điểm chức năng giám đốc.

Giám đốc tài chính là giám đốc bằng tiền, nhưng nó không đồng nhất với mọi kiểm tra, giám sát bằng đồng tiền nói chung trong xã hội. Giám đốc tài chính có tính toàn diện, thường xuyên, liên tục, rộng rãi, kịp thời.

3.2.5 Quá trình giám đốc.

Giám đốc thông qua công tác kế hoạch hóa, phải dự tính nhiều phương án tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Từ đó, chọn phương án có hiệu quả nhất, an toàn nhất.

Giám đốc thông qua công tác kế toán: phải ghi chép quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ từ chứng từ vào sổ sách và lập báo cáo kế toán. Thông qua số liệu kế toán đáng tin cậy (đã qua kiểm toán) có thể kiểm tra tính cần thiết quy mô và hiệu quả của việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.

3.2.6 Kết quả giám đốc.

Phát hiện và điều chỉnh việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ theo mục đích đã định.

4. Hệ thống tài chính của Việt Nam.

Hệ thống tài chính là tổng thể các quan hệ tài chính trong các lĩnh vực khác nhau, nhưng giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính.

4.1 Căn cứ để xác định các khâu tài chính của hệ thống tài chính.

Hệ thống tài chính của một quốc gia, là một thể thống nhất do nhiều mắt khâu tài chính hợp thành. Việc xác định chính xác có bao nhiêu khâu tài chính của hệ thống đó, lại tùy thuộc vào việc chỉ ra các căn cứ để xác định thế nào là một khâu tài chính. Có thể chỉ ra các căn cứ để xác định các khâu tài chính, là:

– Thứ nhất, một khâu tài chính phải là một điểm hội tụ của các nguồn tài chính, là nơi thực hiện việc bơm và hút các nguồn tài chính. Nói cách khác, được coi là khâu tài chính, nếu ở đó có quỹ tiền tệ đặc thù được tạo lập và sử dụng. Nơi nào không có việc tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ riêng, thì không được coi là khâu tài chính độc lập, chẳng hạn như lĩnh vực tài chính đối ngoại.

– Thứ hai, được coi là khâu tài chính nếu ở đó có các hoạt động tài chính, sự vận động của các nguồn tài chính, việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ luôn gắn liền với một chủ thể phân phối, cụ thể, xác định. Các hoạt động phân phối gắn với nhiều chủ thể, sự vận động của các nguồn tài chính ở đó, cũng do nhiều chủ thể chi phối đều không được coi là khâu tài chính độc lập, chẳng hạn như lĩnh vực tài chính đối ngoại.

– Thứ ba, được xếp vào cùng một khâu tài chính nếu các hoạt động tài chính có cùng tính chất đặc điểm, vai trò, có tính đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính và tính mục đích của quỹ tiền tệ trong lĩnh vực hoạt động.

Như vậy: Khâu tài chính là nơi hội tụ của các nguồn tài chính, nơi diễn ra việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể trong lĩnh vực hoạt động.

Dựa trên các căn cứ trên, có thể xác định trong điều kiện hiện nay ở nước ta, có các khâu tài chính như sau: ngân sách nhà nước, tài chính doanh nghiệp, bảo hiểm, tín dụng, tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình.

4.2 Khái quát nhiệm vụ của các khâu trong hệ thống tài chính.

Trong hệ thống tài chính thống nhất, các khâu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nhưng mỗi khâu có những nhiệm vụ riêng.

4.2.1 Ngân sách nhà nước.

Ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo của hệ thống tài chính quốc gia. Đây là tụ điểm của các nguồn tài chính gắn với việc tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước – quỹ ngân sách nhà nước với mục đích phục vụ cho sự hoạt động của bộ máy nhà nước các cấp, và thực hiện các chức năng của nhà nước trong quản lý kinh tế xã hội. Ngân sách nhà nước có các nhiệm vụ sau:

– Động viên, tập trung các nguồn tài chính cho việc tạo lập quỹ tiền tệ của nhà nước – quỹ ngân sách. Các nguồn tài chính từ các khâu tài chính khác được thu hút vào quỹ ngân sách nhà nước, có thể dưới các khoản thu bắt buộc như: thuế, phí, lệ phí, các khoản đóng góp tự nguyện qua hình thức tín dụng nhà nước (vay dân chúng và các tổ chức kinh tế xã hội ở trong nước và nước ngoài) cũng như các khoản viện trợ quốc tế. Việc thu hút các nguồn tài chính để tạo lập quỹ ngân sách có thể trực tiếp từ các khâu tài chính khác, hoặc thông qua thị trường tài chính.

– Phân phối và sử dụng quỹ ngân sách cho việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội (như duy trì bộ máy nhà nước, củng cố quốc phòng an ninh, phát triển văn hóa xã hội, đầu tư kinh tế,…). Để đáp ứng nhiệm vụ này, quỹ ngân sách được tổ chức và chia thành các quỹ tiền tệ nhỏ hơn, có mục đích chuyên dùng cho từng nhiệm vụ, từng lĩnh vực như trên. Việc sử dụng quỹ ngân sách có thẻ làm tăng nguồn tài chính ở khâu tài chính khác, có thể đi vào sử dụng trực tiếp.

– Giám đốc kiểm tra đối với các khâu tài chính khác và với mọi hoạt động kinh tế xã hội gắn liền với quá trình thu chi ngân sách. Là khâu tài chính gắn liền với chủ thể là nhà nước, ngân sách nhà nước có mối liên hệ rộng rãi với mọi lĩnh vực hoạt động khác nhau của xã hội, với tất cả các khâu khác trong hệ thống tài chính. Do đó, nó có khả năng và cần phải thực hiện việc kiểm tra đối với quá trình vận động các nguồn tài chính có quan hệ tới việc tạo lập và sử dụng quỹ ngân sách ở mọi khâu tài chính và mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội.

4.2.2 Tài chính doanh nghiệp.

Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở của hệ thống tài chính quốc gia, là nơi tạo ra của cải xã hội, gắn liền với sự mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài chính. Tài chính doanh nghiệp có các nhiệm vụ sau:

– Một, là bảo đảm vốn và phân phối vốn hợp lý cho các nhu cầu của sản xuất kinh doanh.

– Hai, là tổ chức cho vốn chu chuyển một cách liên tục và có hiệu quả.

– Ba, là phân phối thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp theo đúng các quy định của nhà nước.

– Bốn, là kiểm tra mọi quá trình vận động của các nguồn tài chính trong doanh nghiệp. Đồng thời, kiểm tra hoạt động sản xuất kinh doanh gắn liền với các quá trình đó.

Ở khâu tài chính doanh nghiệp, các quỹ tiền tệ mang hình thức vốn điều lệ của sản xuất kinh doanh, các quỹ dự trữ tài chính, các quỹ chuyên dùng cho mục đích tích lũy (để mở rộng sản xuất kinh doanh) và các quỹ cho tiêu dùng gắn với tập thể những người tham gia sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Sự tạo lập vốn điều lệ ban đầu có thể và trước hết là dựa vào thị trường tài chính, thu hút vốn qua góp vốn cổ phần (phát hành cổ phiếu) hay đi vay (phát hành trái phiếu, vay ngân hàng,…). Sau đó, gắn liền với sản xuất kinh doanh, vốn và các quỹ tiền tệ khác được bổ sung, tái tạo thông qua việc phân phối doanh thu tiêu thụ sản phẩm, lập các quỹ bù đắp (như quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bù đắp vốn lưu động) và tạo lập các quỹ từ lợi nhuận.

Mỗi quỹ tiền tệ trong doanh nghiệp đều có mục đích nhất định, nhưng tính chất chung của chúng là gắn liền với sản xuất kinh doanh, chi dùng cho mục đích sản xuất kinh doanh và phần tiêu dùng để hình thành thu nhập, của những người tham gia sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp.

Tài chính doanh nghiệp có quan hệ với các khâu khác của hệ thống tài chính như: Quan hệ với tài chính hộ gia đình thông qua trả lương, thưởng, lợi tức cổ phần, trái phiếu; Quan hệ với ngân sách thông qua nộp thuế; Quan hệ với các tổ chức tín dụng thông qua việc thu hút nguồn tài chính để tạo vốn, hoặc trả nợ gốc và lãi vay,… Quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các khâu tài chính khác có thể là trực tiếp với nhau, hoặc thông qua thị trường tài chính.

4.2.3 Bảo hiểm.

Bảo hiểm là một khâu trong hệ thống tài chính nước ta. Là một dịch vụ tài chính, bảo hiểm có thể có nhiều hình thức và nhiều quỹ tiền tệ khác nhau, nhưng tính chất chung và đặc biệt của các quỹ bảo hiểm là được tạo lập và sử dụng để bồi thường tổn thất nhiều dạng, cho những chủ thể tham gia bảo hiểm tùy theo mục đích của quỹ.

Tuy có nhiều hình thức bảo hiểm khác nhau, nhưng nếu xét theo tính chất của hoạt động bảo hiểm, thì có thể xếp chúng vào hai nhóm là bảo hiểm kinh doanh và bảo hiểm xã hội. Trong đó, Bảo hiểm kinh doanh bao gồm bảo hiểm tài sản, bảo hiểm con người, và các nghiệp vụ bảo hiểm khác; Bảo hiểm xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.

Quỹ bảo hiểm kinh doanh được hình thành tự sự đóng góp của những người (pháp nhân hoặc thể nhân) tham gia bảo hiểm và chủ yếu được sử dụng để bồi thường tổn thất cho họ, khi họ gặp rủi ro bất ngờ, bị thiệt hại vật chất theo nguyên tắc đặc thù là lấy số đông bù cho số ít. Do tính chất dịch vụ chuyên nghiệp, nên phần lớn các quỹ bảo hiểm kinh doanh được tạo lập và sử dụng có tính chất thương mại, vì mục đích kinh doanh lấy lợi nhuận.

Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ nguồn đóng góp của đơn vị sử dụng lao động và người lao động tính theo một tỷ lệ (%) nhất định trên tiền lương thực tế của người lao động trong các đơn vị đó, và được sử dụng để trợ cấp (bồi thường) cho người lao động khi họ bị mất sức lao động tạm thời hay vĩnh viễn.

Theo tính chất chi tiêu, quỹ bảo hiểm xã hội được chia thành hai quỹ: Quỹ hưu trí để trợ cấp cho người lao động khi họ mất sức lao động vĩnh viễn (về hưu, mất sức, chết) và một quỹ khác để trợ cấp cho người lao động khi họ mất sức lao động tạm thời (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động).

Quỹ bảo hiểm y tế được hình thành từ nguồn đóng góp của đơn vị sử dụng lao động, và người lao động tính theo một tỷ lệ (%) nhất định trên tiền lương thực tế của người lao động trong các đơn vị đó, hoặc từ thu nhập của bản thân người lao động nếu họ không có ở trong các đơn vị sử dụng lao động. Quỹ bảo hiểm y tế được sử dụng để trang trải các chi phí về khám, chữa bệnh (bồi thường) cho người tham gia bảo hiểm y tế khi họ phải khám, chữa bệnh tại các bệnh viện.

Theo tính chất chi tiêu, các quỹ bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm y tế được hình thành và sử dụng không vì mục đích kinh doanh lấy lãi, mà mang tính chất của hội tương hỗ. Trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ bảo hiểm, trước hết bảo hiểm có quan hệ trực tiếp với các khâu tài chính khác qua việc thu phí bảo hiểm và chi bồi thường.

Đồng thời, do khả năng tạm thời nhàn rỗi của các nguồn tài chính trong các quỹ bảo hiểm, các quỹ này có thể được sử dụng tạm thời như các quỹ tín dụng, và như vậy, bảo hiểm cũng có quan hệ với các khâu khác thông qua thị trường tài chính. Trên ý nghĩa này, có thể coi bảo hiểm như một khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính.

4.2.4 Tín dụng.

Tín dụng là một khâu quan trọng của hệ thống tài chính thống nhất. Tín dụng được xem là một khâu tài chính độc lập, muốn đề cập ở đây là hoạt động của các tổ chức tín dụng có tính chất chuyên nghiệp. Tính chất đặc biệt của sự vận động của các nguồn tài chính trong quan hệ tín dụng là có thời hạn. Tín dụng chính là tụ điểm của các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi.

Quỹ tín dụng được tạo lập bằng việc thu hút các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi, theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức. Sau đó, quỹ này được sử dụng để cho vay theo nhu cầu sản xuất kinh doanh hoặc đời sống cũng theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức.

Dựa vào tính chất đặc biệt kể trên của sự vận động của các nguồn tài chính. Hoạt động tín dụng trở thành một dịch vụ tài chính đặc biệt. Dịch vụ này mang tính chất thương mại, vì mục đích kinh doanh lấy lợi nhuận. Trong đời sống thực tiễn, các tổ chức kinh doanh dịch vụ này được gọi là các tổ chức tín dụng.

Ở nước ta hiện nay, có các tổ chức tín dụng bao gồm: Các ngân hàng thương mại; Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng (như các công ty tài chính, các công ty cho thuê tài chính,…); Các tổ chức tín dụng hợp tác (quỹ tín dụng nhân dân),…

Thông qua hoạt động của các tổ chức tín dụng, khâu tín dụng có quan hệ chặt chẽ và trực tiếp với các khâu khác nhau của hệ thống tài chính. Song, các tổ chức tín dụng cũng là các tổ chức hoạt động trên thị trường tài chính, là cầu nối giữa người có khả năng cung ứng và người có nhu cầu sử dụng tạm thời các nguồn tài chính.

Do đó, tín dụng không những có những quan hệ với các khâu tài chính khác, thông qua thị trường tài chính, mà còn trở thành khâu tài chính trung gian quan trọng của hệ thống tài chính.

4.2.5 Tài chính dân cư (hộ gia đình) và các tổ chức xã hội.

Các tổ chức xã hội là khái niệm chung để chỉ các tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể xã hội, các hội nghề nghiệp,… Các tổ chức này còn được gọi là các tổ chức phi chính phủ. Tài chính dân cư (hộ gia đình) và các tổ chức xã hội là khâu quan trọng của hệ thống tài chính. Đặc điểm của tài chính dân cư (hộ gia đình) và các tổ chức xã hội là sự tồn tại của các quỹ tiền tệ cho tiêu dùng trong phạm vi dân cư hoặc tổ chức xã hội.

Quỹ tiền tệ của các hộ gia đình được hình thành từ thu nhập của các thành viên trong gia đình, từ nguồn thừa kế tài sản, từ biếu tặng,… chủ yếu để sử dụng cho mục đích tiêu dùng. Đồng thời, có thể dùng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh trong phạm vi kinh tế hộ gia đình, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, đầu tư vào thị trường tài chính và bảo hiểm.

Quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội được hình thành từ sự đóng góp hội phí, quyên góp ủng hộ,… được sử dụng cho mục đích tiêu dùng trong hoạt động của tổ chức đó. Khi các quỹ chưa được sử dụng, số dư ổn định của quỹ có thể tham gia vào thị trường tài chính, thông qua các quỹ tín dụng hoặc các hình thức khác (mua cổ phiếu, trái phiếu,…).

Phạm Thị Lan Anh


Bạn đang xem bài viết:
Những vấn đề cơ bản về tài chính
Link https://myhocdaicuong.com/tai-chinh/nhung-van-de-co-ban-ve-tai-chinh.html

Nội dung tìm kiếm khác: 3 chức năng của tài chính. Bản chất của tài chính. Các vấn đề cơ bản về quản trị tài chính. Chức năng của tài chính. Mối quan hệ giữa các chức năng của tài chính. Một số vấn đề cơ bản về phân tích tài chính. Nội dung kinh tế xã hội của tài chính là gì. Những kiến thức tài chính kinh doanh cơ bản cần thiết. Những vấn đề lý luận cơ bản về tài chính. Tổng quan những vấn đề cơ bản về tài chính. Ví dụ về tài chính doanh nghiệp. Ví dụ cụ thể về tài chính.

Tiêu đề bài viết: Những vấn đề cơ bản về tài chính
Chuyên mục: Mỹ Học Tài Chính
Ngày đăng: 06/10/2023
Tác giả:
Lượt xem: 67 views
Website: https://myhocdaicuong.com
Link bài viết: https://myhocdaicuong.com/tai-chinh/nhung-van-de-co-ban-ve-tai-chinh.html